Kiến thức, kinh nghiệm và sự tận tâm

Bài tham luận của Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Chiến tại Hội thảo Kỹ năng thẩm vấn và tranh tụng của luật sư trong các vụ án hình sự

Chứng cứ là vấn đề rất quan trọng có tính quyết định việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự. Việc thu thập và đánh giá chứng cứ không chỉ tuân theo các quy định của pháp luật mà còn thể hiện trí tuệ, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có liên quan khi tham gia vào hoạt động này.

HOẠT ĐỘNG THU THẬP, KIỂM TRA, SỬ DỤNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
Luật sư Nguyễn Văn Chiến

Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam

Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
 
Chứng cứ là vấn đề rất quan trọng có tính quyết định việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự. Việc thu thập và đánh giá chứng cứ không chỉ tuân theo các quy định của pháp luật mà còn thể hiện trí tuệ, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có liên quan khi tham gia vào hoạt động này. Đối với luật sư, việc nắm bắt lý luận về chứng cứ, khả năng thu thập và sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự là yếu tố quan trọng bảo đảm sự thành công của Luật sư trong tranh tụng. Do vậy, hoạt động này cần được tiến hành một cách khách quan, cẩn trọng để loại trừ hiện tượng sai lệch hồ sơ, chứng cứ phản ánh sự việc không đúng sự thật dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Kỹ năng này góp phần giúp các luật sư nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp cho khách hàng, góp phần bảo vệ công lý, giữ gìn an ninh trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

1. Hoạt động thu thập, kiểm tra chứng cứ, chứng cứ của luật sư.

Điều 86 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn: Vật chứng; Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Kết luận giám định; Kết quả ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định cách thức thu thập chứng cứ, theo đó người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Theo Khoản 1 Điều 73 Bộ luật TTHS năm 2015 người bào chữa có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; Kiểm tra đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng  kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiền hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
Chứng cứ được xác định bằng nhiều nguồn khác nhau, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định và thuộc tính của chứng cứ là phản ánh hiện thực khách quan, lưu giữ những thông tin có giá trị chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Theo các quy định nói trên, người tham gia tố tụng nói chung, người bào chữa (luật sư) nói riêng, được xác định là người có thẩm quyền thu thập chứng cứ. Họ có quyền thu thập và đưa ra một trong những nguồn của chứng cứ đó là tài liệu, đồ vật, tình tiết có liên quan đến vụ án. Quy định này tạo ra sự bình đẳng hơn trong việc thực hiện quyền thu thập chứng cứ giữa bên buộc tội và nên gỡ tội của BLTTHS 2015 và BLTTHS 2003. Tuy vậy, khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của luật sư tham gia trong TTHS, luật sư vẫn bị hạn chế về vai trò, trách nhiệm trong việc thu thập chứng cứ như:
- Khi tham gia vào việc lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, luật sư chỉ được hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được điều tra viên đồng ý.
- Nhiều hoạt động điều tra khác, như đối chất, nhận dạng, khám xét, thực nghiệm điều tra, khám nghiệm hiện trường, thu thập vật chứng... không có sự hiện diện của luật sư.
- Việc gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam trong giai đoạn điều tra rất khó khăn do luật sư không được tạo điều kiện tiếp xúc riêng tư, lại bị hạn chế thời gian bởi quy định gạp 01 tiếng đồng hồ.
- Việc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa chỉ được chấp thuận sau khi kết thúc điều tra, nhưng thực tế sau khi kết thúc điều tra, luật sư không được tạo điều kiện nghiên cứu, sao chụp hồ sơ mà chờ đến khi chuyển sang Viện kiểm sát mới được nghiên cứu, sao chụp.
Nhiều trường hợp chứng cứ mới, có giá trị chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do luật sư xuất trình lại không được Hội đồng xét xử chấp nhận, dẫn đến phán quyết của Tòa án không xuất phát từ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Bộ luật TTHS năm 2015 cũng quy định rất cụ thể quyền của của người tham gia tố tụng bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan… trong việc cung cấp tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “… người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án…”.
Đến nay, vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể BLTTHS về quyền của  Luật sư cũng như Cơ quan THTT cũng như trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cơ quan hữu quan nên hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ của luật sư còn rất khó khăn.
Pháp luật còn quy định tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được các tài liệu liên quan đến vụ án thì người bào chữa phải có trách nhiệm giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng, không công khai nên rất dễ bị vô hiệu hoá hoặc bị làm sai lệch.
Do vậy, luật sư khi thu thập được chứng cứ cần lựa chọn thời điểm đưa ra phù hợp trong quá trình tố tụng của vụ án nhằm bào chữa và bảo vệ tối đa quyền lợi của thân chủ.
Tuy vậy, theo BLTTHS 2003, khi luật sư cung cấp tài liệu, đồ vật thì các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành thẩm định lại tính xác thực của chứng cứ đó. Song thực tế những chứng cứ này được chuyển hoá vào quy trình tố tụng thường chậm trễ hoặc xác định tính xác thực không có sự tham gia của luật sư nên giá trị chứng minh bị hạn chế.
Hiện nay, trong bối cảnh mở rộng tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp, khi xét xử Toà án phải đảm bảo cho mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan. Việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa và những người có quyền và lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định. Từ nguyên tắc này, đòi hỏi luật sư thực hiện quyền thu thập và sử dụng chứng cứ thực sự tạo thành sự đối trọng bình đẳng với bên buộc tội nhằm giúp giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luậtgóp phần chống oan và giảm sai trong tố tụng hình sự. Có như vậy, vai trò của Luật sư trong xã hội mới được coi trọng.
Mục đích của Luật sư trong việc thực hiện quyền thu thập chứng cứ thường đối lập với cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động của luật sư nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của thân chủ, không được làm xấu đi tình trạng của thân chủ, do vậy chứng cứ của luật sư thu thập và đưa ra nhằm chứng minh có giá trị “gỡ tội”, mang tính phản biện cao (một phần hoặc toàn bộ) đối với chứng cứ “buộc tội” và luận điểm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Để bào chữa có hiệu quả, Luật sư sẽ có những hoạt động thu thập chứng cứ và đưa ra những kiến nghị điều tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút quyết định truy tố, thay đổi tội danh, chuyển khung hình phạt nhẹ hơn...Tuy nhiên, những kiến nghị của Luật sư ít khi được xem xét một cách đầy đủ.
Thực tiễn cho thấy CQĐT, VKS thu thập chứng cứ buộc tội, khi luật sư thu thập chứng cứ gỡ tội chống lại chứng cứ buộc tội của các cơ quan này thì rất khó có việc xem xét một cách khách quan, đầy đủ những chứng cứ “chống lại mình” bởi việc chấp nhận chứng cứ gỡ tội, đặc biệt là chứng cứ minh oan của luật sư chính là nguy cơ dẫn họ đến chỗ phải bồi thường oan (nếu có)!
Còn về phía TAND, việc BLTTHS quy định cơ quan này cũng có nghĩa vụ chứng minh tội phạm đã biến Hội đồng xét xử (HĐXX) thành một bên buộc tội trước khi đưa ra bản án. Một khi đã “đứng chung” với CQĐT, VKS thì quan điểm đánh giá chứng cứ, nhất là chứng cứ gỡ tội do luật sư đưa ra chắc chắn sẽ bị tác động khiên cưỡng. Thực tế cho thấy, hoạt động bào chữa củae luật sư nếu chỉ với những lập luận sắc bén, thuyết phục của người bào chữa tại phiên tòa thường chỉ được ghi nhận một cách hết sức khiêm tốn, chung chung trong bản án là “không có cơ sở”. Nếu chứng cứ buộc tội thiếu thuyết phục thì HĐXX tuyên trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm buộc tội bằng được bị cáo.
Vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn phải ngồi tù oan gần 10 năm là một bài học lớn về tính độc lập của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, không đầy đủ. Trong vụ án này, không chỉ CQĐT, VKS, TAND tỉnh Bắc Giang (cấp sơ thẩm) mà cả Viện Phúc thẩm 1 VKSND Tối cao lẫn Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội (cấp phúc thẩm) đều có cùng chung một nhận định là với những chứng cứ mà CQĐT Công an tỉnh Bắc Giang thu thập thì ông Chấn là người phạm tội. Chỉ duy nhất có LS bào chữa chỉ định cho ông Chấn là có đánh giá khác. Tuy nhiên, hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ của luật sư trong các giai đoạn tố tungk của vụ án này cũng chưa được chú trọng, bới vậy hiệu quả minh oan cho ông Chấn không đạt được tại thời điểm đó.
Từ thực tế phân tích và ví dụ nêu trên, cho thấy luật sư chỉ có thể bằng những chứng cứ mới có thể thuyết phục HĐXX. Để có được chứng cứ do luật sư thu thập và sử dụng có hiệu quả, cần thiết phải bình đẳng hơn nữa trong việc thu thập, cung cấp và sử dụng chứng cứ của luật sư, động thời cũng phải có cơ chế bảo đảm trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tiếp nhận và xem xét đánh giá chứng cứ của luật sư cung cấp. Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để người tham gia tố tụng thực sự được thực hiện các quyền của họ theo đúng các quy định của pháp luật. Đây là một trong những quyền cơ bản của người tham gia tố tụng.

2. Sử dụng và đánh giá chứng cứ.

Mặc dù BLTTHS 2015 đã quy định luật sư có quyề thu thập chứng cứ bình đẳng với bên buộc tội, tuy vậy do đặc thù nghề nghiệp là luật sư đơn phương thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi cho người phạm tội nên thường gặp những khó khăn, bất lợi hơn và từ chính phía các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tiếp cận, phát hiện và thu thập các chứng cứ liên quan để phục vụ cho quá trình bào chữa. Từ đặc điểm này đòi hởi luật sư phải chủ động tìm kiếm, thu thập và xử lý các tình huống nhằm phát huy khả năng chứng minh của chứng cứ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích cho khách hàng. Khắc phục thực trạng luật sư chỉ đánh giá và nghiên cứu những chứng cứ được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, đưa ra quan điểm đánh giá đơn thuần qua các lời khai, biên bản hỏi cụng có sẵn trong hồ sơ.
Điều 16 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và đảm bảo cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Luật quy định như vậy có nghĩa là luật sư (người bào chữa) được tham gia vào quá trình điều tra (từ khi khởi tố bị can), truy tố và xét xử, được đọc các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án mà khách hàng mời luật sư làm người bào chữa. Trong cách thức để luật sư tham gia vào vụ án hình sự, họ được trao một số quyền, trong đó có những quyền liên quan đến chứng cứ trong vụ án, như: phát hiện và thu thập chứng cứ; đánh giá chứng cứ; sử dụng chứng cứ.

Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 73 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa”, trong đó người bào chữa có các quyền:
    Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật;
    Kiểm tra đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
    Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiền hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
Như vậy, luật sư không nên thụ động trong việc dựa vào các tài liệu, chứng cứ sao chụp được của các cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ cho việc nghiên cứu, đánh giá của mình. Quyền của luật sư trong việc đánh giá, nghiên cứu chứng cứ cần được phát huy có hiệu quả bằng khả năng vận dụng, nắm bắt và xác định được mục tiêu hướng đến để thu thập, phát hiện ra những yếu tố nào, chứng cứ quan trọng nào phục vụ cho việc bào chữa có lợi nhất cho khách hàng.
Khi xác định được việc chủ động tiếp cận, phát hiện và nghiên cứu chứng cứ được rồi, điều tiên quyết luật sư cần nắm vững là định hướng mục đích của việc đánh giá, nghiên cứu chứng cứ có được trong vụ án. Do mục đích của luật sư trong quyền đưa ra chứng cứ khác với những cơ quan và người tiến hành tố tụng, bởi luật sự, trước hết là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, sau nữa góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khác nhau về vụ án. Trong thực tế, cũng có trường hợp, luật sư không được sử dụng chứng cứ thu thập được, bởi nếu sử dụng chứng cứ đó sẽ làm xấu đi tình trạng của thân chủ.

Ví dụ: Luật sư N. P bào chữa cho ông T. N trong một vụ án cướp tiệm vàng, Trước các cơ quan tiến hành tố tụng, bị can không nhận tội, nhưng trong quá trình tìm hiểu vụ việc, luật sư N. P phát hiện ra những chứng cứ buộc tội bị can T. N, vì vậy, luật sư N. P không có quyền đưa ra chứng cứ đó, bởi như vậy sẽ vi phạm đức đức nghề nghiệp. Trong trường hợp này, luật sư N. P đã lựa chọn việc từ chối bào chữa tiếp cho bị cáo T. N tại tòa.

Bằng cách nắm rõ mục đích hướng đến của một luật sư trong từng vụ án khác nhau, luật sư phân biệt được việc phải tìm ở đâu chứng cứ nhằm hướng mục đích của mình vào việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ đó tránh bị “vênh”, bị “lệch” khỏi yêu cầu mà khách hàng đặt ra cho luật sư; tuy vậy, như trên đã đề cập, dù cho mục đích hướng tới khách hàng tới đâu thì việc thu thập, phát hiện, đánh giá, nghiên cứu chứng cứ cũng phải tuân thủ quy định của pháp luật.
Thực tế có những trường hợp, chứng cứ mà luật sư thu thập được, về cơ bản là xác định giá trị buộc tội của các chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng dùng để chứng minh bị can, bị cáo phạm tội. Để bào chữa có hiệu quả, luật sư phải có ý kiến để phản biện (một phần hoặc toàn bộ) chứng cứ buộc tội đó, có những kiến nghị, đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định khác nhau như điều tra bổ sung, điều tra lại, đình chỉ điều tra, rút cáo trạng, thay đổi tội danh nhẹ hơn, áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị nêu trong bản luận tội, để hội đồng xét xử cân nhắc khi định tội danh, quyết định hình phạt cho bị cáo. Điều này thể hiện rõ mục đích hướng đến của luật sư khi hành nghề, đồng thời thể hiện tinh thần, trách nhiệm của luật sư đối với khách hàng của mình.
Có thể khái quát lại, tuỳ theo luật sư bào chữa hay bảo vệ cho khách hàng là ai, bị can, bị cáo hay đương sự, luật sư sẽ có định hướng cho việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ khác nhau, nhưng bao giờ, khi đưa ra chứng cứ, luật sư cũng phải đảm bảo hướng có lợi nhất cho khách hàng của mình.
Đi vào từng giai đoạn cụ thể của quá trình tố tụng của một vụ án hình sự chúng ta có thể nhìn nhận rõ hơn từng kỹ năng quan trọng mà Luật sư cần thực hiện để mang lại hiệu quả trong công việc của mình. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải được tôn trọng và bảo vệ. Bằng hoạt động của mình, Luật sư giúp bị can, bị cáo thực hiện tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, nghĩa vụ của họ theo quy định pháp luật, đồng thời giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết và xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Cần nhìn nhận rằng, quá trình điều tra vụ án hình sự có những đặc thù riêng so với các hoạt động tố tụng khác, những đặc thù của giai đoạn này có ảnh hưởng, tác động nhất định đến hoạt động bào chữa. So với giai đoạn khác hoạt động bào chữa trong giai đọan này có những đặc điểm riêng, đó không phải là sự đối sánh chứng cứ trực tiếp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội như ở giai đoạn xét xử. Những thông tin, tài liệu chứng cứ làm cơ sở cho việc xác định sự thật của vụ án đối với Luật sư không nhiều nhưng những thông tin tài liệu, chứng cứ đó lại rất quan trọng đối với việc bảo vệ quyền lợi cho bị can. Do vậy Luật sư cần phải biết tập trung thời gian, công sức trí tuệ để nghiên cứu, đánh giá tính hợp pháp của những thông tin, tài liệu, chứng cứ đó. Chỉ khi tập trung, đánh giá có trọng điểm và chính xác những chứng cứ là cơ sở cho việc xác định sự thật vụ án thì kết quả của hoạt động này mới trở nên có ý nghĩa. Theo quy định của Bộ luật TTHS nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan và những người tiến hành tố tụng, điều này có nghĩa rằng những người nói trên có nghĩa vụ phải đi thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án "vườn điều" nói riêng, chúng ta nhận thấy việc thu thập chứng cứ còn nhiều bất cập dẫn tới sai lầm khi đánh giá và sử dụng chứng cứ.
Điều 90 và Điều 105 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về vấn đề thu thập và bảo quản vật chứng. Theo đó, vật chứng cần được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Trong trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có thể ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng. Tuy nhiên, trên thực tế, khi thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ, không ít người tiến hành tố tụng do bất cẩn đã làm mất mát, hư hỏng thậm chí họ cố tình đánh tráo, cất giấu hoặc huỷ hoại những vật chứng quan trọng nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xác định sự thật vụ án, không ít trường hợp đã kết án oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm.
Vấn đề nổi cộm trong vụ án "vườn điều" là việc thu thập con dao (vật chứng quan trọng của vụ án) và sau đó là các kết luận giám định không thống nhất với nhau gây hoang mang trong dư luận. Nhiều câu hỏi mang tính ngờ vực được đặt ra như: liệu đây có thực sự là con dao gây án không? Tại sao cơ quan giám định không dám kết luận miếng sắt gỉ đó là dao mà cơ quan điều tra lại khẳng định vật chưa thể định hình là hung khí gây ra cái chết cho nạn nhân Trần Thị Mỹ?..v.v
“Vật chứng” là con dao phay, theo những người trực tiếp đào và chụp ảnh tang vật,cơ quan công an đã dùng máy dò kim loại dò tìm liên tục từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều, sau đó đào một hố có diện tích 4x5 m, sâu 0,5 m mới tìm được một miếng sắt đã bị han gỉ, gãy làm ba đoạn. Cạnh miếng sắt còn có một chiếc dò đạp xe đạp. Sau khi “vật chứng” được tìm thấy, cơ quan công an mới đưa Nén đến nơi tìm thấy vật chứng chỉ để… chụp ảnh nhằm hợp pháp hoá là đã có sự chứng kiến của Nén. Riêng con dao gây án, theo cáo trạng là dao phay, dài 40 cm, rộng 5 cm. Nhưng con dao tìm thấy từ hố sâu lại dài 28 cm, rộng 9,3 cm. Như vậy, sau gần 6 năm chôn vùi dưới đất, con dao bị gỉ bị "co" lại 30% chiều dài, nhưng lại nở gần gấp đôi về chiều rộng. Vật chứng được thu thập như vậy có đáng tin cậy hay không?
Bộ luật TTHS 2015 đã có quy định Luật sư có quyền đưa ra các tài liệu đồ vật yêu cầu mà trong giai đoạn điều tra Cơ quan điều tra chưa phát hiện được. Trong trường hợp này Luật sư có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra xem xét nhưng chỉ khi chứng cứ có có lợi cho bị can và không làm xấu đi tình trạng của bị can như chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can nếu bị can thực sự vô tội; chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can không đến mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ sơ thể hiện; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà Cơ quan điều tra chưa thể hiện trong hồ sơ. Giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự là phạm vi các tình tiết, các dấu hiệu cần và đủ phải chứng minh để khẳng định một người phạm tội hay không phạm tội; giới hạn chứng minh một người phạm tội cụ thể nào đó bao giờ cũng rộng hơn giới hạn chứng minh người đó không phạm tội. Để chứng minh một người phạm tội cơ quan tiến hành tố tụng, người bị hại và luật sư của người bị hại cần phải có đủ các chứng cứ để chứng minh là hành vi phạm tội của người phạm tội phải có đủ bốn yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm, còn để chứng minh người đó không phạm tội, bị can, bị cáo, người bào chữa cho bị can, bị cáo chỉ cần chứng minh là không có một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm đó. Nói một cách khác, để buộc tội cần phải có nhiều chứng cứ, còn để gỡ tội có khi chỉ cần một chứng cứ. Và Luật sư, hơn ai hết có điều kiện để vận dụng điều kiện này để đưa ra những yêu cầu có lợi cho than chủ mình, nếu Luật sư nắm được những chứng cứ thuyết phục.
Sử dụng chứng cứ để phục vụ cho công việc là một trong những nhiệm vụ của Luật sư, nếu như đánh giá được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng thì việc sử dụng chứng cứ cũng vậy. Trước hết Luật sư sử dụng chứng cứ để làm căn cứ đề xuất, kiến nghị với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, thực hiện một công việc nào đó hướng tới mục đích làm lợi cho thân chủ. Trong phiên toà, luật sư sử dụngchứng cứ để phản bác một phần hay toàn bộ quan điểm của bên đối lập, khẳng định quan điểm của mình, đề nghị Viện kiểm sát rút một phần hay toàn bộ truy tố, đề nghị Toà án áp dụng điều luật hoặc những biện pháp có tính chất tố tụng khác có lợi cho thân chủ. Để làm tốt nhiệm vụ bào chữa của mình, Luật sư cần nắm vững các quy định của pháp luật có liên quan đến địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người mà họ bào chữa cũng như nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Không những thế, Luật sư còn phải nắm vững diễn biến của quá trình tố tụng để đảm bảo quá trình điều tra phải có căn cứ khách quan.
Trong quá trình hoạt động thu thập chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư có quyền gặp gỡ trao đổi, đề xuất với cơ quan Toà án, Viện kiểm sát nhằm: Khắc phục những thiếu sót trong điều tra, truy tố; đảm bảo tính khách quan của hoạt động tố tụng; bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của thân chủ.
Luật sư cũng có quyền trao đổi với Toà án và Viện kiểm sát những vấn đề vè thủ tục tố tụng và chứng cứ của vụ án:
Thứ nhất, về tố tụng: Luật sư trao đổi để làm rõ hồ sơ vụ án cần phải xem xét xem có đảm bảo đúng thủ tục tố tụng hình sự hay không; có việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không; có cần đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn ; nhập hoặc tách vụ án hay không.
Thứ hai, về chứng cứ: Đã có đủ chứng cứ để xét xử bị cáo chưa; nếu còn thiếu chứng cứ thì đó là chứng cứ quạn trọng hay không quan trọng đối với vụ án, có thể bổ sung tại phiên Tòa hay không; có đúng là bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội đã bị truy tố hay phạm một tội khác hoặc có người khác cùng phạm tội với bị cáo.
Trong quá trình tiếp xúc, trao đổi ấy, khi thấy có vi phạm về thủ tục tố tụng, không đảm bảo về chứng cứ xét xử bị cáo thì Luật sư có thể gặp thẩm phán hoặc kiểm sát viên tại phòng làm việc của họ để trao đổi.

Ví dụ: Nguyên nhân dẫn đến cái chết của bà Mỹ là do bị chém nhiều nhát vào phần đầu, mặt đến mức không nhận diện được nhưng quần áo của nạn nhân lại không có vết máu. Cơ quan điều tra đã “quên” không lập biên bản nhận dạng tử thi mà chỉ căn cứ vào những phỏng đoán 5 của những người xung quanh. Khó hiểu hơn, ngay khi phát hiện xác nạn nhân, anh Bửu, chồng chị Mỹ lập tức bị công an áp giải đi, cho đến khi xác nạn nhân được bỏ vào quan tài anh Bửu mới được quay về. Nghĩa là ngay việc nhận dạng xác nạn nhân cũng không phải do chính người thân nhất của chị Mỹ thực hiện. Cách thu thập chứng cứ nêu trên liệu có hợp pháp hay không?

Trong tường hợp cần cung cấp thêm chứng cứ thì Luật sư chủ động cung cấp thêm chứng cứ của vụ án và trao đổi với Toà án và Viện kiểm sát. Như vậy, việc Luật sư chủ động xâm nhập thực tế vụ án sẽ nâng cao khả năng đạt được những kết quả có lợi hơn cho khách hàng của mình do việc tiếp cận với hồ sơ vụ án nói chung và chứng cứ nói riêng được trực tiếp và sát sao hơn.
Trong quá trình trao đổi, đề xuất với Viện kiểm sát, Tòa án thì thông thường Luật sư tập trung trọng điểm vào những vấn đề sau:
Thứ nhất, trong các trường hợp sau đây thì Luật sư yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung: Khi thấy hồ sơ thiếu những chứng cứ quan trọng, nếu cứ xét xử thì dẫn đến oan sai hoặc làm cho bị cáo phạm tội nặng hơn; trường hợp bảo vệ cho người bị hại thì khi thấy có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội nặng hơn tội đã bị truy tố thì đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung thay đổi tội danh; khi thấy có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho việc điều tra không chính xác ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của thân chủ.
Thứ hai, khi có các chứng cứ cho thấy thấy vụ án mà mình có trách nhiệm bảo vệ cho thân chủ nếu được nhập vào trong một vụ án khác hoặc cần tách ra để xét xử sau là phù hợp với quy định của pháp luật thì đề nghị với Viện Kiểm sát hoặc Toà án giải quyết.
Thứ ba, qua nghiên cứu thấy người làm chứng quan trọng có lời khai buộc tội bị cáo, nhưng lời khai này có nhiều điểm chưa rõ hoặc có mâu thuân với chứng cứ khác trong vụ án, nếu người làm chứng này không có mặt trong phiên toà thì sự công bố lời khai của họ có thể ảnh hưởng đến sự thật của vụ án, không có lợi cho thân chủ.

Ví dụ: Trong vụ án "vườn điều", lời khai của nhiều người làm chứng không thống nhất với nhau như: có người khẳng định nhìn thấy chị Mỹ vào thời điểm mà cơ quan điều tra cho rằng chị Mỹ đã chết; có người trước đây không chịu khai báo điều gì sau đó lại đột ngột tự nhận mình là người đã viết thư giúp nạn nhân Mỹ ….. Tất cả những vấn đề này cần được tìm hiểu và thu thập sao cho những lời khai của người biết tới vụ án có khả năngchứng minh một hay nhiều vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án.

Trong trường hợp này, Luật sư phải đề nghị Toà án cho triệu tập người làm chứng này đến để xét hổi làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Thứ tư, trong trường hợp nếu thấy việc tạm giam bị can bị cáo là không có căn cứ như tạm giam bị can, bị cáo 15 tuôỉ phạm tội nghiêm trọng, tạm giam bị can, bị cáo 17 tuổi phạm tội nhgiêm trọng do vô ý hoặc bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, khai báo thành khẩn, mắc bện nặng cần phải được chữa bệnh, việc tạm giam bị can, bị cáo không cần thiết nữa thì phải đề nghị với Toà án viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam trả tự do cho bị can, bị cáo. Nếu xét thấy cần thì đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay cho biện pháp tạm giam.
Thứ năm, trong trường hợp nghi ngờ bị can, bị cáo đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bện khác làm mát khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của họ thì đề nghị Viện kiểm sát hoặc Toà án ra quyết định trưng cầu giám định pháp y về năng lực chịu trách nhiệm hình sự của họ.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự hiện nay đang còn nhiều điều phải bàn cả về lý luận và thực tiễn. Đây không chỉ là hoạt động tuân thủ pháp luật từ việc thu thập chứng cứ, sử dụng và đánh giá chứng cứ, mà còn là hoạt động thể hiện trí tuệ, khoa học, lương tâm nghề nghiệp, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, Luật sư và của những người tham gia tiến hành tố tụng khác. Hy vọng rằng, với tiến trình cải cách tư pháp cùng với việc pháp luật ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn, đặc biệt là yếu tố con người, khi đánh giá chứng cứ cần phải khách quan hơn, thận trọng hơn khi thực thi nhiệm vụ. Chỉ khi làm được như vậy, thì tính giáo dục, thuyết phục và đặc biệt là tính nhân văn trong pháp luật hình sự của nhà nước ta mới phát huy được tác dụng, công lý mới được đảm bảo, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mới được pháp luật bảo vệ, loại trừ hiện tượng oan, sai người vô tội cũng như tránh bỏ lọt tội phạm, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN.

Lượt xem: 549